TKH - banner 06

Search

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Visitor Counter

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

 

  Khi nói đến bệnh lao người ta thường chỉ nghĩ đến lao phổi, thực ra ngoài phổi, vi trùng Mycobacterium tuberculosis có thể sinh bệnh tại nhiều cơ quan khác, Vi thế ngoài lao phổi còn có lao hạch, lao xương, lao màng óc, lao ruột , lao gan v.v
 


 

Bệnh lao hầu như đã biến mất tại nhửng nước kỹ nghệ hoá, nhưng nay đang có dấu hiệu tái xuất hiện

 Bệnh lao tái xuất hiện

  Bệnh lao đã có từ nhiều thế kỷ. Bệnh này hầu như đã ”biến mất” tại các nước kỹ nghệ hóa, nhưng nay lại tái xuất hiện. Tuy vậy, ngày nay phần lớn các trường hợp tử vong vì bệnh lao đều xẩy ra ở các nước đang phát triển, và hơn phân nửa là ở Châu Á. Các sự di chuyển của dân chúng cũng như các làn sóng di dân góp phẩn rất nhiều vào sự lan truyển bệnh này trên thế giới

  Tại các nước kỹ nghệ hóa, các vụ di dân không chủ ý do thiên tai, nội chiến và chiến tranh cũng có thể có ảnh hưởng tới sự “ trở lại” của bệnh lao. Các phương tiện di chuyển tân tiến và các cơ hội dành cho bât cứ ai có thể du lịch khắp thế giới và các nuớc có rủi ro lây nhiễm cao, đã giúp cho bệnh lao lan nhanh như thuốc nổ

Một bệnh dễ lây

  Bệnh lao là một bệnh nhiểm khuẩn gây ra bởi vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis hay vi khuẩn Koch. Thường ra bệnh hay tấn công phổi, nhưng cũng có thể tấn công các bộ phận khác trong cơ thể như hạch lympho (bạch huyết), khớp xuơng và m àng não (*)

  Viêm khuẩn này dễ lây và truyền qua không khí, nhất là khi người bị bệnh lao thở, ho, hắt hơi, nói, hát v.v… Những lúc này người bệnh tống ra cả hàng triệu vi khuẩn lao và không khí xung quanh nhanh chóng trở thành một mối đe dọa cho sức khỏe công cộng

  Phn đông những người tiếp xúc với vi khuẩn lao sẽ không mắc bệnh, vì các vi khuẩn này bị hệ miễn nhiễm tiêu diệt. Nếu thoát chết các vi khuẩn sống sót có thể nẳm yên trong cơ thể dưới” trang thái ngủ” (état dormant). Vào trường hợp này, người nhiễm khuẩn không có thẩy có triệu chứng gì mà cũng không thể truyền bệnh, và được cơ quan y tế Canada “Santé Canada” gọi là “porteur sain” (người lành mạnh mang mầm bệnh).

  Tuy nhiên các người này có thể phát bệnh lao khi hệ thống miễn nhiễm của họ không còn có khả năng ngăn cản vi khuẩn “tỉnh dậy” và nhân bội .. Rủi ro cao nhất là trong hai năm đầu kể từ khi người này bị nhiễm khuẩn. Gẩn 10 phần trăm các người nhiễm khuẩn sẽ bị mẳc bệnh lao trong cuộc đời của họ

Trong các triệu chứng cũa bệnh lao phổi phải kể

· Ho kéo dài hơn 3 tuần hay ho ra máu

· Đau ngực

· Suy yếu hay cực kỳ mệt mỏi

· Giảm cân hay không còn muốn ăn

· Lạnh run

· Sốt kéo dài

· Đổ mồ hôi vào đêm

 Những ai có nhiểu rủi ro mắc bệnh

  Những người bị bệnh VIH/SIDA ( tức HIV/AIDS) có rủi ro cao bị mẳc bệnh lao vì hệ miễn nhiễm của họ quá suy yếu. Nếu họ bị nhiễm vi khuẩn lao thì nguy cơ mắc bệnh lao sẽ tăng lên gấp từ 50 tới 170 lần.

Những ngưởi sau đây cũng dễ có rủi ro mắc bệnh

· Những người tiếp xúc gần gũi với người mắc bệnh lao

· Những người nghèo khó , không nơi trú ngụ

· Những người nằm trong các trung tâm chăm sóc sức khỏe dài hạn

· Những ngưởi bị giam cầm trong các trại giáo huấn

· Những cư dân thuộc các công đồng có tỉ lệ cao về bệnh lao

Bất cứ ai tiếp cận với các nhóm ngưởi có rủi ro bị bệnh trên đây cũng dể bị nhiễm khuẩn

Theo Cơ quan Ytế Santé Canada thì có một số yếu tố làm tăng nguy cơ bị nhiễm khuẩn, đặc biệt là:

· Thiếu cân ( tức là có chỉ số khối lượng cơ thể dưới 20 ( body mass index BMI <20)

· Bị bệnh tiểu đường

· Bị nhiễm vi khuẩn lao trong vòng hai năm sau cùng

· Được ghép bộ phận ( vì uống thuốc triệt miễn nhiễm/ immunosuppressants)

· Hút thuốc ( mỗi ngày từ 1 bao thuốc trở lên)

  Đối với một người lành mạnh mang mầm mống bệnh (porteur sain), thuốc lá làm tăng từ hai đến ba lẩn nguy cơ các vi khuẫn “thức dậy” dẫn đến sự bộc phát của bệnh lao. Hút thuốc cũng gia tăng tới sáu lần rủi ro tử vong đối những nguời mắc bệnh lao

 Chẩn đoán và điều trị

Hình chụp phổi

  Ngoài việc chụp hình quang tuyến X hay thử đờm để xem b ệnh lao đã tấn công phổi hay chưa , bệnh lao còn có thể được truy tầm bằng cách thử da Tuberculin ( xét Nghiệm Mantoux) để biết một người đã bị nhiễm khuẩn hay chưa . Kết quả thử nghiệm da có được trong vòng từ 48 đến 72 tiếng. Nếu thử nghiệm dương tính thì bệnh nhân phải được điều trị cho tới cùng nếu không hệ miễn nhi ễm sẽ bị suy yếu. Thuốc men hỗ trợ cơ thể chống lại các vi khuẩn và giảm rủi ro bệnh phát tác

  Các vi khuẩn khó bị tiêu diệt vì vậy việc trị liệu đòi hỏi thời gian và gắt gao. Trong hai tháng đầu bệnh nhân phải uống ba hay bốn loại thuốc kháng sinh (antibiotiques) để kiểm soát nhiểm khuẩn, sau đó liều lượng thuốc sẽ giảm bớt trong bốn tháng kế tiếp để tận diệt các vi khuẩn. Sau sáu tháng điều trị thích hợp, khoảng 98% bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn.

  Những người không tuân theo chỉ dẩn về trị liệu có nguy cơ truyền bệnh và bệnh sẽ trở thành đề kháng đối với thuốc. (resistant aux médicaments). Nếu không được chữa trị, một ngưởi mắc bệnh lao có thể truyền bệnh trung bình cho từ 10 đến 15 người trong một năm

  Tại Canada, có gần 1,600 ca bệnh lao mới được phát hiện mỗi năm. Vào năm 2006, ba tỉnh đông dân nhất (Colombie-Britannique, Ontario và Québec)—qui tụ 76% dân số Canada—có 76% tổng số các ca bệnh lao của toàn quốc. Tỉ lệ bệnh lao cao nhất là tại vùng Nunavut, ở vùng này tỉ lệ người nghiện thuốc lá cũng cao nhất so với các nơi khác trong nước.

 Chích ngừa lao cho trẻ em

  Khi dùng BCG (vaccine Bacillus Camette-Guérin) để ngừa bệnh lao người ta đưa vào cơ thể các cháu bé ( bằng cách làm xước da, chích dưới da hay cho uống thuốc) những vi khuẩn lao của bò đã được làm yếu tới mức không gây được bệnh nữa nhưng vẩn còn đủ mạnh để kích thích hệ miễn nhiễm của cơ thễ cháu bé sàn sinh ra những kháng thể chống lại vi khuẩn lao

  Tưởng nên biết nhóm nghiên cứu ở trường Cao đẳng Imperial London đã tìm ra được một loại protein mới tên là EspC. Protein này đáp ứng được những miễn dịch mạnh và kháng lại vi khuẩn lao Mycobacterium hiệu quả. Ngưi ta hi vọng tạo ra m ột loại vắc-xin lao mới, có thể kích thích hệ miễn nhiễm rộng hơn và mạnh hơn loại vaccine lao BCG.

 Một số các dạng bệnh lao khác:

 1-Bệnh lao hạch:

  Bệnh thường gặp ở vùng cổ, xuất hiện nhiều ở trẻ em. Các hạch viêm thông thường (do thương tổn răng, miệng, mũi... ) là nơi vi khuẩn lao dễ dàng xâm nhập, khu trú và dẫn đến lao hạch.

Bệnh lao hạch biểu hiện dưới nhiều dạng

 - Thể viêm hạch thông thường: Không viêm quanh hạch, thường ở vùng dưới hàm hay cạnh cổ có một hay nhiều hạch sưng to, cứng, không đau, di động dưới da. Có thể hạch chỉ dừng ở giai đoạn này hay chuyển sang giai đoạn viêm quanh hạch.

- Thể viêm hạch và viêm quanh hạch: Các hạch sưng to và tụ lại thành một khối, nhiều cục dính vào sâu và vào da do viêm quanh hạch. Lúc đầu hạch cứng, không đau, sau mềm và chuyển sáng. Da trở nên loét, rò chảy mủ màu xanh nhạt, không dính, trong mủ có bã đậu lổn nhổn. Lỗ rò có bờ tím, bong ra, có thể bội nhiễm gây viêm hạch lan tỏa. Sau khi khối tổ chức hạch đã bị loại trừ hết, lỗ rò khó để lại những sẹo lồi, sùi trắng hoặc những dây chằng xơ. Trong quá trình viêm hạch lao, nói chung sức khỏe bình thường trừ trường hợp bị bội nhiễm hay kèm theo tổn thương lao phổi, xương...

- Thể khối u: Là viêm hạch lao phì đại. Thể này ít gặp, khối u thường ở cổ, ít được chú ý, thấy một hay vài hạch nổi to, sau dính thành một khối không đau, di động, sờ chắc và không có viêm quanh hạch. Khối u to dần, có thể bằng quả cam, chiếm gần hết vùng bên cổ. Các hạch khác (dưới hàm, mang tai...) cũng bị phì đại. U ở một bên nhưng có khi cả hai bên làm cho cổ như bạnh ra.

 2- Bệnh lao xương khớp:

  Triệu chứng điển hình là đau tại chỗ bị bệnh, hạn chế vận động, nếu bệnh diễn biến lâu ngày không điều trị có thể gây rò mủ tại chỗ, nếu bị lao cột sống có thể gây gù, vẹo cột sống, liệt vận động…

3- Bệnh lao màng não:

  Lao màng não xuất hiện khi vi khuẩn lao đi theo đường máu đến tấn công não và màng não. Căn bệnh này xảy ra ở mọi lứa tuổi. Ở người lớn, lao màng não thường gặp ở lứa tuổi 20-50, nam bị nhiều hơn nữ. Ở trẻ em, bệnh tập trung ở lứa tuổi 1-5.

Dù chỉ chiếm 5% tổng số các ca lao, nhưng lao màng não là thể lao ngoài phổi có tiên lượng nặng, tỷ lệ tử vong cao và thường để lại di chứng nặng: Nếu nhập viện muộn (khi đã hôn mê sâu), tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lên đến 70-80%. Những người còn sống có thể gặp những biến chứng nặng nề như: sống thực vật, động kinh, mù mắt, liệt dây thần kinh 3 hoặc 4, liệt nửa người hoặc 2 chi dưới, thiểu năng trí tuệ, thay đổi tính tình, béo phì, vô kinh ở nữ giới, tiểu đường

Vi khuẩn lao gây bệnh lao màng não.

   Bệnh lao màng não khởi đầu với những triệu chứng không đặc hiệu: nhức đầu, chóng mặt, ù tai; có người bị co giật khu trú, liệt, nói nhảm, buồn bã... khá giống với các bệnh thông thường như cảm cúm, rối loạn tiền đình, viêm xoang, rối loạn tâm lý. Nhìn chung, các triệu chứng bệnh ở giai đoạn này ít nhận biết được, dễ bỏ qua.

  Khi bệnh tiến triển, tùy thuộc vào thời gian mắc bệnh sớm hay muộn mà các triệu chứng có thể rất nghèo nàn hoặc phong phú. Tuy nhiên, các dấu hiệu viêm màng não điển hình ngày càng đầy đủ và rõ như: sốt cao kéo dài, tăng lên về chiều tối; nhức đầu khu trú hoặc lan tỏa, liên tục hoặc thành từng cơn, âm ỉ hoặc dữ dội và tăng lên khi có những kích thích tiếng động hoặc ánh sáng (nhức đầu kết hợp với tăng trương lực cơ làm bệnh nhân hay nằm ở tư thế co người, quay mặt vào trong tối); nôn (khi tăng áp lực nội sọ) tự nhiên, nôn vọt không liên quan tới bữa ăn; rối loạn tiêu hoá như táo bón hoặc tiêu chảy; đau bụng, đau các khớp, đau ở cột sống phối hợp với đau ở các chi; rối loạn cơ thắt gây bí đái, tiểu tiện hoặc đại tiểu tiện không tự chủ; liệt các dây thần kinh sọ, liệt các chi, các cơn động kinh cục bộ hoặc toàn thể, các biểu hiện rối loạn tâm thần. Các biểu hiện rối loạn ý thức có thể có với mức từ nhẹ đến nặng (hôn mê). Do các biểu hiện này cũng gặp ở các bệnh về não khác như u não, xuất huyết não, màng não, viêm màng não mủ, viêm màng não do nấm... nên bệnh nhân và ngay cả thầy thuốc cũng chẩn đoán nhầm,

 Nguyễn Hữu Chánh - Sưu Tầm

Add comment

Security code
Refresh

Tìm bài theo vần ABC