TKH - banner 04

Search

Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

Visitor Counter

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 

Tôi Cũng Có Một Người Cha

          Trên cõi đời nhiều hệ lụy nầy, ai được sanh ra cũng có một người cha ruột! Phải, chỉ một người cha ruột độc nhứt thôi! Trong gia đình êm ấm thì con cái có niềm thương nỗi nhớ an vui mật ngọt hưởng hạnh phúc từ cha mẹ anh chị em, gia đình. Người vô phước cha qua đời từ thuở bé, hay ly dị với mẹ, thì đứa con như mất một phần quan trọng suốt trong cuộc đời sống của mình. Như mọi người sanh ra trên thế gian nầy, tôi cũng có một người cha! Dù cha đang bị giặc cầm tù trong trại cải tạo, nhưng tôi cảm thấy mình hạnh phúc, hãnh diện, tự hào hơn với những đứa nhỏ chòm xóm có tiền được đi học, dư ăn dư mặc hơn anh em chúng tôi. Bởi vì cha tôi là một quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bị giặc cưỡng chiếm bắt làm tù binh! Cha tôi là một tù nhân Chánh trị.

     Má tôi là một phụ nữ trẻ an phận, chịu khó, chịu cực và có sức chịu đựng bền bỉ hơn những người đàn bà khác. Bà yêu quý ba tôi vô cùng dù ở vào bất cứ hoàn cảnh và thời cuộc nào! Các con và chồng là tất cả những gì trân quý nhứt bà có trên cõi đời nầy của má tôi.

Má tôi luôn ân cần chỉ bảo khuyên răn các con mọi thứ. Bà cùng nhỏ to dặn dò anh em chúng tôi luyện ý chí vững bền như những người trai hiên ngang đáp đền ơn đất nước như cha tôi và đồng đội của người... Cho nên tôi nguyện và hứa với lòng luôn nhớ kim ngôn của bà trong suốt cuộc đời nầy!

“………………….

Lời mẹ dạy con khắc ghi tâm trí

Học tốt làm người dân nước Việt Nam

Phải hãnh diện cha con tù Chánh trị

Dù đói nghèo không thẹn với lương tâm

………………………………………”

     Ngoài trời tối thui, nhà nhà ở xóm thôn còn chìm trong giấc ngủ say, khi gà mới gáy bận nhứt. Tôi được má đánh thức và kéo ra sàng lãng múc nước lu rửa mặt, lau khô rồi bà tròng vào tôi chiếc áo ấm nhiều miếng vá cũ mèm nặc mùi mốc lâu ngày không rớ tới. Nhưng mặc áo vào chỉ một chút thôi, thì tôi không còn nghe mùi nữa mà cảm thấy ấm áp… Đỡ hơn không có áo ấm trước cơn gió sáng còn đẫm ướt sương lạnh, mà chúng tôi phải mò mẫm đường làng, rồi bắc qua đường đồng đi trong đêm tối.

     Khi được đánh thức và rửa mặt cho tỉnh táo, nhưng tôi hãy còn sật sừ trong cơn ngủ. Má để tôi ngồi trong thúng đặt nơi đầu gióng trước… Còn mọi thứ đồ ăn khô, áo quần cũ, thuốc men… độn, nhét nhưng vẫn chàm vàm ở đầu gióng sau. Kẽo ka, kẽo kẹt trên vai gầy, bà gánh đi thoăn thoắt trên đường làng quê, băng qua cánh đồng khô đầy gốc rạ vào lộ đá.

     Chúng tôi sẽ đón đi từng chặng xe, có lúc đi bộ, ngồi xuồng qua vùng nước ruộng mênh mông. Mẹ con tôi đi thăm ba đang bị tù cải tạo ở đâu trong Vườn Đào, kinh Mười Hai, hay Đồng Tháp Mười chi đó… Bởi tôi đã nghe thấy má nhọc nhằn chuẩn bị, chắt mót những thứ cần thiết cho chồng từ mấy tháng trước, và gởi cho mợ Út hai đứa em kế tôi, vì chúng còn nhỏ đi xa bồng bế không tiện, và gió mái, rũi chúng bị bịnh thì khổ lắm!

     Mẹ con tôi hết sức vất vả vì đường xa, khi đi xe, lúc lội bộ qua quãng đường nắng chói chang, đồng mông hiu quạnh không cửa không nhà. Lúc được những người tốt bụng cho quá giang xuồng.

     Tôi được má khóac nước rửa mặt mày lem luốc vì mồ hôi, vì miếng bánh tét đỡ lòng dính đầy trên môi, trên mép miệng. Má tôi mồ hôi nhễ nhại nhưng tươi tình, niềm vui hiện rõ trên đôi mắt long lanh có nét buồn cố hữu của bà. Niềm vui đầy hy vọng đó đã đánh đổ mọi gian nan, khổ cực, lo âu hàng ngày… Nó mạnh mẽ vô cùng, như dưới trời nắng hạ cây lá đang héo xào, được tưới nước ngấm vào phút chốc sởn sơ tươi tắn trở lại… Đó là phát xuất bởi tình thương yêu chồng, lòng má tôi đang ngập tràn hạnh phúc. Vì trong chốc lát nữa đây, bà sẽ gặp lại mặt chồng con sẽ gặp lại cha sau bao nhiếu tháng năm xa cách.

     Chúng tôi chen chúc trong những người chờ đợi gọi tên vào thăm nuôi chồng. Má tôi choáng váng muốn ngã quị khi họ cho biết ba tôi đã bị chuyển ra Bắc từ mười ngày trước! Thế là má tôi trong niềm đau thương tận cùng dắt con lê thê lết thết trở về nhà.

     Hai mẹ con tôi trở về trong mệt mỏi vì đường xa, vì thiếu ăn, thiếu nước uống, buồn ngủ... Ngoài những thứ đó má tôi còn thêm tan nát cõi lòng! Người khóc suốt trên quãng đường về, lo sợ ba sẽ vùi thây nơi đất Bắc, không còn hy vọng trở về nữa! “Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy!” Ôi oan khiên, cay nghiệt, nỗi oán hờn của mẹ con tôi cao chất ngất trời xanh!

2562 1 ToiCungCo1NguoiChaDTDB

     Lúc ba còn tại nhiệm (đi lính) nhà chúng tôi ở Sài Gòn. Dù không giàu có như những gia đình khác, nhưng gia đình tôi sống trong thương yêu và hạnh phúc. Ba tôi là một quân nhân có nghề truyền tin, mẹ tôi là cô thợ may lỡ vận! Bởi “Ngộ biến phải tùng quyền” học chữ nửa chừng ở năm Đệ nhị. Bà phải lòng yêu ba, theo tiếng gọi của tình yêu ông bà ngoại bắt mẹ tôi chọn một trong hai thứ: Bỏ học về làm vợ người ta, hoặc được cha mẹ giúp lo cho đi học tiếp tục đến nơi đến chốn như ý muốn.

     Theo tiếng gọi của tình yêu, má tôi bỏ học chữ, lấy chồng và đi học may để phụ ba tìm kế sinh nhai. Vì nghề may học nhanh không mất nhiều thời gian, dễ kiếm tiền nuôi gia đình hơn học các trường học nghề khác mà bà có thể thi vào được như là trường y tá, sư phạm…

     Để rồi sau đám cưới hai người sống tự lập với nhau. Trong khi bên ngoại tôi ở Bình Minh thuộc Cần Thơ, bên nội ở Sóc Xoài thuộc tỉnh Rạch Giá. Thật ra gia đình hai bên nội ngoại đều không hài lòng cho cuộc hôn nhân nầy, vì cả hai còn quá trẻ.

     Ba tôi ra Sĩ quan Thủ Đức, mới 23 tuổi, và má tôi cô nữ sinh Đệ nhị cấp trường Áo Tím Gia Long ở khoảng 18. Bên gia đình ông bà ngoại là thương gia giàu có trong vùng. Họ đã đặt nhiều hy vọng trong tương lai đầy hứa hẹn về đứa con gái yêu quý độc nhứt trong bốn đứa con, mà ba người kia đều là trai đã có gia đình.

     Nhưng cuối cùng hai bên cũng phải khuất phuc đành làm sui gia với nhau. Bởi trước tình yêu trong sáng và quyết liệt đòi chết đòi sống của đứa con gái, đứa con trai bất trị của hai bên!

     Má tôi chống đối với mọi người trong gia đình, kể cả ông bà ngoại là người có quyền huy tối thượng với các con. Nhứt quyết ưng lấy người má tôi yêu làm chồng, như thế thì phải biết tình yêu của má đối với ba tôi như thế nào rồi!

     Ba má ngoài tôi đứa con lớn, còn có hai đứa con gái nữa. Đứa nhỏ nhứt sanh tháng 10 năm 1975. Em gái út của tôi chào đời sáu tháng sau khi giặc tràn vào, và ba đã bị tù cải tạo! Lúc đó cái gì trong nhà bán được thì má tôi đem bán để sống qua ngày… Bởi không ai may đồ vì tiền không có mua gạo nấu, thì tiền đâu mà may sắm áo quần mới.

     Gia đình chúng tôi lâm vào cảnh kiệt quệ, má đưa các con về Bình Minh gần bên dòng họ ngoại, mong nhờ có sự trợ giúp lúc đầu, rồi bà sẽ may vá kiếm tiền nuôi con, chờ chồng trở về từ tù ngục cải tạo trở về.

     Gia đình bên ngoại lúc xưa đã hờn gận má chúng tôi, rồi bây giờ bà đem con cái về ngoại tá túc. Nên mẹ con chúng tôi không sao tránh khỏi dòng họ ngoại tiếp đón lạnh lùng, tẻ nhạt!

     Nhưng “Hùm dữ cũng không ăn thịt con” ông bà ngoại cho cất cái chòi sau vườn để mẹ con tạm che nắng che mưa đôi khi cho gạo, cho khoai, trái... Tôi thường theo má đi xúc cá, giăng câu, má tôi vất vả chạy ăn hàng ngày cho ba đứa con chỉ ăn, rồi phá chớ chưa biết làm gì để bà đỡ tay, đỡ chân cho bà…

-  Thời buổi bây giờ không phải như hồi trước, cây trái trong vườn, đâu còn như xưa nữa… Ruộng mấy năm mất mùa vì không đủ phân bón, lại bị sưu cao thuế nặng. Còn phải dòm chừng và coi sắc mặt của lũ 30 tháng 4 rìn mò, báo cáo để lập công… Mẹ con họ kéo cả bầy về ăn sập nhà sập cửa, chớ không làm gì lợi cả, thiệt là cái đồ báo hại…

Đó là những lời nói cố tình nhưng làm như vô ý của mợ Hai để cho má tôi nghe… Rồi mợ Ba cũng hùa theo nói bóng nói gió:

-  Ngày xưa cổ cứng miệng lắm, đòi sống đòi chết nếu không lấy được dượng ấy làm chồng. Và bảo sau nầy có cạp đất mà ăn, cổ cũng không trở lại để nhờ vả cha mẹ anh em… Bây giờ thì vác mặt về ngồi không mà ăn, còn lũ con thì phá làng phá xóm như quỉ phá nhà chay không ai chịu nổi…

     Chỉ có mợ Út thì cảm thông bà chị chồng sa cơ thất thế, thương xót mấy đứa cháu nheo nhóc cha là “Ngụy quân” phải đói khổ nhọc nhằn theo thời cuộc! Mợ thường lén mấy bà kia đem cho chúng tôi bánh trái, khoai, đậu có khi khô, khi cá, tôm cậu giở chà, giăng câu bắt được…

     Những lời dèm pha, chê bai của mấy bà chị dâu khiến má tôi đau buồn lắm! Nhưng bà phải cắn răng chịu đựng lì ra đó không một tiếng oán than, cũng vì chồng đang tù tội và các con còn quá nhỏ đã đến nước đường cùng! Chớ má tôi cũng có tự ái lắm chớ, bà cố gắng buôn bán để kiếm sống cho gia đình, nhưng thời cuộc đẩy đưa, lại không có vốn liếng… ăn nhiều hơn làm ra nên cứ thiếu trước hụt sau!

     Nền trời xanh gay gắt nắng, cao vòi vọi. Cây mận say trái hiên nhà lay động theo cơn gió thổi qua. Bông cam, chanh, bười tỏa hương bát ngát, và nhà bên kia rạch vang tiếng ru cháu ngủ trưa của bà Sáu Huệ “Ấu ơ… ơ… Đời người có mấy gang tay/ Tội gì cặm cụi cả ngày lẫn đêm…”  Rồi lanh lảnh, bà tiếp: “Ầu ơ…ơ... ơ… Chớ… Ông Cả ngồi trên sập vàng/ Cả ăn, Cả mặc lại càng Cả lo/ Ầu ơ…ơ…ơ Ông bếp ngồi cạnh đống tro/ Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm…” Như cảm khái tình đời, giọng buồn ngủ của bà kéo nhừa nhựa, khiến người có tâm sự nghe thêm buồn chí xứ: “Một năm được mấy tháng xuân/ Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa…Ầu ơ, ơ, ơ...”

     Cho dù thuở đó còn bé nhỏ, nhưng tôi thở dài cảm thấy như có vật gì đó đè nặng trên ngực mình! Và tôi mơ ước được bà tiên hiền lành ban phép cho tôi ngủ một đêm, sáng thức dậy bỗng dưng mình cao lớn như người đàn ông khỏe mạnh. Để tôi làm được mọi việc như vác mướn ở bến xe, bến tàu, đạp xích lô chở khách… để phụ má tôi nuôi em và có tiền đi thăm ba!

     Tôi ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới không hiểu biết gì nhiều, nhưng thấy má ngày càng hắt hiu và buồn bã, tôi cũng nghe lòng xốn xang buồn đau như má…

     Từ đó tôi rủ hay mấy đứa em lớn chạy theo bọn trẻ con hàng xóm, đi mót khoai người ta đào, đi mót bắp sau khi chủ vườn hái xong… Tuy không mót được bao nhiêu, nhưng ít ra cũng sẽ có một hai đứa trong anh em tôi sẽ được no ngày đó!

     Có một hôm ông bà ngoại gọi tất cả các con, các dâu. Ông bà ngoại các con ngồi ở nhà trên kế bên bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ! Lũ em tôi chạy giỡn với con mấy cậu, còn tôi đứng sát vách nhà có cái kẹt thỉnh thoảng liếc mắt len lén nhìn vào, nhứt là hướng về má tôi…

     Gia đình ngoại hàng ngày có ông bà, anh chị em ở gần nên gặp nhau mỗi ngày không có gì lo sợ. Nhưng hôm nay bầu không khí có vẻ trang trọng, khiến cho mọi người trong đó đều yên lặng e ngại nhìn nhau, chớ không nói lấy nửa lời…

     Mấy mợ ngoan ngoãn ngồi gần chồng im hơi lặng tiếng. Chớ gặp má tôi họ dễ gì để yên mà không: nói đon, nói ghen, nói thêm, nói bớt, nói cay, nói đắng, nói hơi, nói hám, nói gièm, nói bông lông, nói gio giảnh, nói chảnh, nói chua, nó dóc, nói khẩy, nói đổng, nói khích… để khinh khi, để gây chuyện, để chê bai mẹ con tôi!

Ông ngoại dụi tàn thuốc, hớp ngụm nước trà trầm ngâm một hồi, rồi lên tiếng bảo với các con:

-  Bây giờ thời buổi nhiễu nhương, nay đổi tiền, mai xét hộ khẩu… Ai có đất vườn, tiền của thì bị dòm ngó và sẽ không biết trước chuyện gì có thể xảy ra… Nhà có ăn món gì ngon cũng phải giấu, không dám nói gì đụng chạm đến “họ” vì sợ tai vách mạch rừng, ra làng xã báo cáo thì khổ lắm! Nay ba má cũng đã già nay đau mai yếu, làm ăn không nổi như lúc trước nữa, nên quyết định chia những gì cha mẹ đang có cho bốn anh em bây. Vốn liếng ba má không bao nhiêu, nhưng đây là của cải do sự lam lũ chắt mót cả đời của tao và má bây mới có. Ba má chia cho một lần thôi, của đứa nào thì đứa nấy giữ gìn để nuôi con và làm sanh lợi mà sống hết cuộc đời nầy…

     Cậu Hai, cậu ba, cậu Út mỗi người được năm mẫu vừa vườn và ruộng. Còn má tôi không nghe ông bà nhắc đến chia đất vườn. Nhưng má tôi không nói gì, mặt mày thẫn thờ ngồi yên đó, như tượng đá ngoài công viên gần nhà cũ của chúng tôi trên Sài Gòn!

Ông ngoại lên tiếng tiếp:

-  “Nhứt trưởng nam, nhì con út” Thằng Hai, và thằng ba được ra riêng, có căn cơ nhà cửa mấy năm nay. Thằng Út vẫn ở chung với ba má, giờ ba má giao cho vợ chồng Út cái nhà hương hỏa trên miếng đất vườn một mẫu rưỡi đang ở đây. Vợ chồng thằng Út có bổn phận phải cúng giỗ, và phụng dưỡng cha mẹ cho đến trăm tuổi già. Còn gia đình con Tư (má tôi) nó là em và chị bây, bị sa cơ thất thế, chồng tù đày không biết chừng nào mới được thả, con cái lùm đùm… Nay mẹ con nó ở tạm ngoài cái chòi đó, khi nào muốn đi đâu thì đi “Nữ sanh ngoại tộc” cha mẹ không khuyến khích bắt con cháu về ở đây và cũng không hất hủi đuổi xô…

     Mấy bà chị dâu của má tôi thiệt là nhỏ mọn, hẹp hòi hết chỗ nói! Họ có vẻ sung sướng, hả hê, khoái chí ra mặt... khi ông ngoại không chia vườn đất cho đứa em chồng đáng thương, chưa làm gì phật ý họ. Nhưng hai cái bà xấu xa mợ Hai, mợ Ba“Mợ dâu nấu đầu trâu lũng trả” đó luôn xem má tôi như cái gai trong mắt! Còn Hai ông cậu anh của má tôi làm thinh, miệng như đang ngậm trái bồ hòn, trước mặt con vợ không dám thở mạnh, không dám ho lớn... thì đừng nghĩ khếu nại nói giúp cho em! Chắc là sợ nói ra hai ông sợ vợ nầy sẽ bị chia bớt phần, về nhà sẽ bị vợ đánh tơi bời hoa lá?

      Bà ngoại ngồi đối diện với ông, nãy giờ không nói lời nào. Bà lắng nghe từng lời nói của chồng. Miệng nhai trầu bỏm bẻm, thỉnh thoảng phẹt nước cổ trầu vào ống nhôm, bà lấy cục thuốc xỉa lau qua lau lại cho sạch nước trầu dính môi, và khóe miệng. 

Bà ngoại  nghiêm giọng, bảo:

          -  Con nào cũng con, trai cũng như gái do tao chín tháng mang nặng đẻ đau… Tao với ổng nuôi bốn anh em bây khôn lớn cưới vợ gả chồng. Mấy đứa con trai tiền bạc luôn được bù đắp… Ba thằng con trai đều giống nhau, hồi mới cưới vợ về ở chung trong nhà, mà cha mẹ cho vợ chồng làm để tiền riêng. Còn con Tư cho một lần khi gả thì không cho nữa. Vì tao với ba bây không hài lòng về việc nó bỏ học đi lấy chồng quá sớm! Nhưng từ lúc lấy nhau đến ngày nay, vợ chồng con Tư chưa hề xin xỏ hay mượn chát cha mẹ thứ gì, và chưa làm điều gì khiến cho tao với ba bây phật ý. Gia đình người ta thì “Lá lành đùm lá rách/ Anh ngã em nâng/ Em ngã anh nâng” Còn ba anh em bây, từ khi con Tư thất thế dắt con về đây, có đứa nào cho mẹ con nó cọng rau, hay lít gạo chưa? Nó có lỗi là lỗi với tao và ba bây kìa, chớ không có lỗi gì với bọn bây hết… Đừng tưởng tao không biết, mấy con vợ tụi bây còn ganh tỵ rồi gièm pha, nói xiên nói xỏ nó nữa! Tao không phải là bà mẹ chồng xem con dâu là người dưng đâu. Đã cầm trầu cầm cau đi cưới bây về để nối dòng nối giỏi cho họ nhà nầy thì con dâu, con gái với ba bây và tao vẫn như nhau, không nghiêng về phía bên con gái hay con dâu!

     Bà ngoại ngừng lại uống hớp nước xúc xúc miệng cho sạch cổ trầu rồi nhổ vào ống lon. Còn mấy mụ mợ dâu tôi xụ mặt tẻn tò ngó xuống, không dám hó hé lời nào. Bà nói tiếp:

          -  Tao với ba bây hờn giận nó, tụi bây cũng hùa nhau xúm lại nói hành nói tỏi… Nó có nói câu nào, hay làm gì mất lòng vợ chồng bọn bây không? Tụi bây đứa nào giờ cũng có nhà cửa của cải riêng tư, và đã làm cha mẹ, con gái có, con trai có, “ăn bậy được, nhưng nói bậy coi chừng mang khẩu nghiệp!” Thời buổi bây giờ bớt nói lại một chút đi, và cố mà ăn hiền ở lành, gieo phước đức, để sau nầy con cháu được nhờ. Không chia vườn đất cho con Tư như mấy anh em bây vì nó là thợ may, ở thị thành, không biết chi về ruộng rẫy, chèo ghe, bơi xuồng… Tao với ba bây đã quyết định rồi, sẽ cho mẹ con nó căn nhà bên Cầu Chữ Y trên Sài Gòn. Ngày xưa mua nhà trên thành thị vì ở thôn quê không an ổn, nên định dời gia đình về đó ở. Sống ở quê gần nửa cuộc đời, đâu phải nói dời ra thành thị ở thì dễ. Dần dà nhà đó đến giờ vẫn cho người ta mướn. Tháng trước người mướn kêu trả nhà lại, vì họ bảo đất nước hòa bình (sau 30 tháng tư) đem gia đình về quê trồng tỉa mà sanh sống.       

Nói đến đó bà ngoại tôi cưởi mỉa, dừng lại rồi dịu giọng:

          -  Hồi “mấy ổng” chưa vào, hết giao kèo cho mướn, mình đòi nhà lại cho thêm tiền, nhưng họ không chịu trả nhà. Họ còn năn nỉ tự động tăng thêm tiền mướn mỗi tháng… Giờ đây chủ nhà không tốn một đồng nào cho họ cũng dọn đi… Họ còn bảo: “Bây giờ hòa bình rồi, cho dù về quê có cạp đất ăn cũng vui” Tao nghĩ rồi, họ sẽ không có đất để cạp nữa...

          Ông ngoại tôi chép miệng thở dài, héo hắt:

-  Đổi đời, đời đổi! Rồi đây tấc đất tấc vàng như ông cha đã nói “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang/ Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” Để mà coi, cái gì cũng lên vùn vụt như thăng thiên, và nhà cửa ở thị thành giá cả cũng sẽ lên cao ngất trời xanh… Người phương Bắc mấy mươi năm dưới chế độ Cộng sản bị nhồi sọ, trở thành dại dột, lòng tham và tự mãn chiến thắng! Họ tràn vào sẽ phá tan hoang cái tươi đẹp, văn minh của miền Nam và ủy diệt cả niềm tin và hy vọng của tuổi trẻ, trên cái đất nước đã mấy ngàn năm do ông cha gầy dựng đắp bồi...

          Ôm vai bà ngoại, má tôi sụt sùi nghẹn ngào:

          -  Xin lỗi, con vô nghì bất hiếu không nghe lời cha mẹ, đã khiến cho ba má đau lòng. Vậy mà từ bấy lâu nay con cứ tưởng ba má không còn thương đứa con nầy nữa! Xin lỗi ba mà, con xin lỗi...

          Các cậu mợ tôi như thấm lời bà ngoại, nét mặt ai nấy trở nên bùi ngùi cảm động! Những gút mắc ganh hờn, tỵ hiềm giữa chị dâu em chồng giờ như tan biến dần trong lòng mọi người!

     Ngoài trời đẹp trong màu nắng lụa chang chang. Mấy con chim khách bay rèn rẹt rượt đuổi nhau véo von mé hiên nhà trên. Cây cối vườn tược sởn sơ sau cơn mưa đêm qua, giờ đây lá xanh biêng biếc, tươi rói phơi phới. Lá cành lay động va chạm vào nhau âm thanh rào rào, theo cơn gió thổi qua mát rượi bêb ngoài, và thấm mát cả lòng người. 

2562 2 ToiCungCo1NguoiChaDTDB

     Tháng sau mẹ con tôi thu dọn căn chòi cụ bị mọi thứ, trở lại Sài Gòn nơi căn nhà mới của ngoại cho. Cũng nhờ các cậu mợ giúp đỡ chuyên, gạo, nếp, mỗi người một ít tiền mặt gom góp lại giúp má tôi số vồn kha khá để tạm thời buôn bán nhỏ để kiếm cơm qua ngày khi mẹ con tôi trở lại sài thành củi quế gạo châu sau ngày Việt cộng chiếm toàn lảnh thổ.

     Căn nhà ông bà ngoại cho ở vùng Rạch Ông, bên kia cầu Chữ Y. Tôi ở nhà giữ hai em, sáng sớm má đã qua các chợ chồm hổm mua hàng đầu chợ bán cuối chợ kiếm sống qua ngày. Xế chiều về có khi kiếm được lít gạo, mớ khoai, rau héo, miếng thịt cũ, mớ cá ương… là anh em tôi tíu tít vui mừng có bữa ăn chiều ngon hơn bữa giỗ đầy sơn hào hản vị của người có tiền!

     Trong từng ngày lại ngày qua, nhờ má chắc chiu mà gia đình tôi sống lây lấc trong hy vọng và mong đợi có ngày cha trở về. Một hôm được thư ba gởi ở nơi nào đó ngoài đất Bắc, má hỏi thăm người ta mới biết là vùng rừng sâu Bắc Việt! Từ nhà chúng tôi phải mất mấy ngày đường mới đến nơi ba bị cầm giam mà thăm viếng… Má tôi thật vất vả trăm chiều, thân cò lặn lội vừa nuôi con, vừa chắt mót tiền đi thăm chồng. Phải dành dụm gần sáu tháng sau, má mới có lộ phí và cụ bị thuốc men, thức ăn khô, và một vài thứ cần thiết đi thăm nuôi ba!

     Lúc má đi thăm nuôi ba, thì bà ngoại lên trông chừng chúng tôi đâu gần nửa tháng. Má trở về như một xác ve sầu khi trời đã sang thu. Vì đường sá xa xôi đói ăn thiếu thuốc men và khổ tâm cùng nỗi khổ của ba tôi! Bà nằm liệt giường cả tháng trời tưởng như không sao qua khỏi. Bà ngoại vừa sắt thuốc cho con vừa lau nước mắt… Nhờ Ơn Trên hộ độ và tình thương yêu chồng con mảnh liệt và đầy niềm hy vọng ba trở về nên bà mới sinh tồn.

      Vừa ngoắc ngoải là má tôi ra chợ buôn bán. Ngày ngày bà dầm sương dãi nắng bươn chải từ mặt chời chưa lên cho đến đỏ đèn mới trở về nhà. Nhưng gia đình mẹ con tôi vẫn thiếu trước hụt sau, ăn bữa đủ bữa thiếu! Anh em tôi đã quá tuổi đến trường, nhưng không có tiền và liên hệ cha là “ngụy quân” nên không trường nào cho vào học. Đêm, đêm má dạy kèm ở nhà, mong cho chúng tôi biết đọc biết viết là đủ rồi…

     Những tháng năm lặng lẽ trôi qua trong sự nghèo túng và buồn khổ của gia đình. Ba tôi vẫn còn ở tù cải tạo chưa được thả, má tôi vẫn hàng ngày như mọi ngày buôn bán ở chợ và lai rai đêm về may đồ, lên trôn quần áo cho những bạn hàng chợ quen biết.

     Tự cổ chí kim, xã hội nào cũng vậy, có người tốt kẻ xấu, nhưng dưới chế độ Cộng sản kẻ xấu nhiều quá! Nhiều vô số kể, cái tốt khó học cái xấu dễ nhiễm. Người miền Nam tốt “Lễ, nghĩ. hiếu, trí, tín,…” cũng tiêm nhiễm thói hư tật xấu rất nhanh của người ở miền Bắc chế độ Cộng sản từ bấy lâu nay. Có nhiều môi trường cám dỗ về vật chất thích hợp để cho người đàn bà cô đơn, thiếu thốn đói nghèo như hoàn cảnh má tôi sẽ dễ dàng bị sa ngã. Nhưng má tôi là một phụ nữ chắc dạ, đảm đang, kiên tâm cắn răng chịu đựng nhờ vào tình thương con, chung thủy với chồng… Đức tánh nầy của má, là khuôn vàng thước ngọc để cho anh em chúng tôi răm rắp noi theo với lòng kính phục và thương yêu vô cùng!

       Đôi năm sau, anh em tôi sáng sớm biết phụ má đẩy xe ra chợ, và dọn hàng ra sạp để bán. Có khi nhanh chân ra phụ má dọn hàng về sớm hơn mọi hôm, vì mây khói đèn bốn phương ùng ùng kéo tới che kính bầu trời, sấm chớp liên hồi. Cơn gió mạnh ào ạt thổi qua hốt lều chỏng ở chợ nghiêng ngã, bay tứ tung, lá khô giấy tạp bay bổng lên rồi long lóc tấp trên hàng rào bên đường, dưới gốc cây bã đậu, hoặc cột đèn... Thế là nhờ nhanh tay mẹ con tôi tránh được cơn mưa như trút nước, mưa như cầm chĩnh mà đổ.         

     Chúng tôi chạy về đến cửa nhà thì mưa rơi như trút nước! Mưa càng lúc càng nặng hột, gió thổi ào ào quằn quại nhánh cây liễu, cậy mận sau hè... Còn cây chùm ruột tét nhánh, trái rơi rụng nằm lềnh khênh đầy đất. Má tôi lật đật đến bàn thờ thắp ba nén nhang và lâm râm khấn nguyện gì đó không nghe. Nhưng tôi chắc chắn một điều, đó là lời cầu xin cho sự an bình của anh em chúng tôi và ba sớm được thả về từ tù cải tạo…

     Mưa đã đời rồi cũng tạnh, mây đen kéo đi, nhưng hoàng hôn đà tắt nắng. Mặt trời chiều đã lặn và phố sá sau cơn mưa mát mẻ đã lên đèn. Những bóng đèn mắc trên cột cao nghều nghệu vàng võ như đèn ma trơi. Nước mưa dưới đường vẫn tiếp tục chảy ào ào xuống vùng đất thấp, lỗ cống... Nước chảy không kịp tràn trên mặt đất, lỗ cống lớn cũng bị nghẹt bởi giấy lá, rác rến… Nước đọng linh láng như cái hồ, vậy mà cũng có mấy đứa trẻ con hàng xóm đến bơi lội bì bõm, đùa giỡn trong vũng nước đen ngòm ngòm thấy mà ghê!

     Sau khi ăn cơm dọn dẹp xong thì má đi tắm, còn anh em tôi chong đèn đọc bài, tập đồ, tập viết… Tôi chợt thấy hình rùn mình vì gió lạnh ảnh hưởng cơn mưa vùa qua, vừa sợ vì hình như có bóng ai thoáng qua ngoài song cửa sổ? Nhìn kỹ như hình nộm của thằng bù nhìn canh ruộng lúa, vì nó khô đét ốm còi cọc vào cao lêu nghêu! Rồi tôi giựt bắn người lên vì tiếng gõ vào cửa lệch lạc từng tiếng như không đủ sức… Thay vì chúng tôi cùng chạy đến mở cửa lại chạy ào vào trong, tôi e dè sợ sệt thì thào với mẹ:

          -  Má à, có ma đánh bộp bộp vào cửa nhà mình! Tụi con sợ quá chạy vào đây… Má có sợ không, hãy ra coi đi má…?

          Má tôi với lấy đèn cóc treo trên vách nhà đi ra. Anh em tôi len lén theo sau mà mắt láo liên, tưởng chừng có con quái vật nép đâu đó sẵn sàng chụp lấy chúng tôi! Đến cửa má tôi đứng yên xem coi có động tịnh gì không? Bà vừa mở chốt cửa vừa càm ràm tôi:

          -  Tụi bây thì lúc nào cũng vậy! Bậy bạ không hà thiệt anh lớn gì tệ quá đi, con là trai sao mà nhát gan nói ma chi làm cho hai em sợ…

          Cánh cửa bật mở, có một thây người ngả bổ vào người má tôi. Hai đứa em chạy vào buồng trốn, còn tôi cũng giựt nẫy mình thụt lùi về phía sau.

Tiếng thảng thốt của má tôi:

-  Trời ơi, anh đã về, anh về rồi… Lẹ, lẹ phụ má đỡ ba lên giường mau lên, mau lên các con… 

     Không ngần ngừ phản ứng, tôi nhào tới cùng má lôi đỡ ba lên cái đi-văng kế bàn ăn cơm gần đó… Ba tôi ư ử, tay chân cựa quậy đôi, miệng kham kháp như hụt hơi đòi nước…

     Má tôi rót tách trà ấm, đỡ đầu kề sát vào miệng, ba tôi hớp từ hớp nước và lần lần tỉnh táo lại. Ba yếu đuối thờ thẫn nhìn quanh nhà không nói lời nào.

Vuốt tóc anh em tôi, ông như nén nghẹn ngào thổn thức:

-  Các con bây giờ đã lớn đại hết rồi. Ba thật vô dụng để mẹ con đói khổ rách rưới! Từ rày ba sẽ cố gắng làm việc lo cho má và các con…

     Bất ngờ không định trước ba về, khiến má tôi vui mừng nghẹn ngào không nói nên lời. Bà lính quýnh chạy tới chạy lui, không biết làm gì? Rồi như cười cho chính mình, như sực nhớ bà vội lấy khăn nhúng nước đem đến cho ba lau mặt.

-  Anh về em không hay biết gì hết! Thiệt không thể nào tin được, mừng quá nên em quên đầu quên đuôi hết trọi. Em đã bắt lên bếp nấu om cháo, anh ướt mem chắc là vì trận mưa vừa mới tạnh? Để em đi nấu nước anh tắm cho khỏe rồi ăn nghe, dầm mưa lạnh lẽo phải ăn gì lỏng và nóng cho ấm bụng, kẻo bị bịnh thì khổ lắm…

          Ba nhìn má cảm động, mắt ông đỏ:

          -  Về đến nhà gặp em và các con thì anh cảm thấy khỏe rồi. Thôi lấy áo quần để anh đi tắm, khỏi cần phải nấu nước nóng làm chi…

          Sao nở rộ trên trời đêm quang đãng sau cơn mưa. Nước mưa còn đọng trên cành cây kẽ lá rơi lộp độp khi cơn gió thổi qua mát rượi! Vầng trăng trong mười bảy đã lên, tỏa ánh sáng xuống muôn loài, trùm phủ ngôi nhà tràn đầy hạnh phúc của chúng tôi!

          Ba về nhà tôi thêm người, gia đình vui vẻ hạnh phúc dù vẫn thiếu trước hụt sau. Má tôi vẫn ra bán chợ mỗi sáng, ba theo giúp nhưng bà không cho, nhẹ giọng thương cảm nói với chồng:

          -  Mười mấy năm anh vất vã khốn khổ qua nhiều rồi. Mới về, anh cứ ở nhà chơi và chỉ dạy con, chúng thiếu tình thương của cha bấy lâu nay. Tạm thời để em ra chợ buôn bán như cũ và xem tình thế ra sao rồi sẽ tính…

          Ba tôi quen siêng năng, tháo vát làm việc từ ở trong quân ngũ, rồi bị tù đày vật vả, cực nhọc vô cùng… Giờ đây không làm gì giúp đỡ vợ con, ông cảm thấy mình là người vô dụng… nên có vẻ không bằng lòng! Nhưng rồi ba cũng miễn cưỡng gật đầu ở nhà chăn mấy đứa con và làm tất cả những việc lặt vặt trong nhà như nấu ăn, giặt giũi, tắm rửa con cái…

     Nhưng mặc cảm trong lòng ba tôi lớn dần, dù má tôi là người phụ nữ hết sức tế nhị về ngoại giao bên ngoài và nuông chiều chăm sóc ba tôi rất mực… Miếng thịt béo, con cá ngon, rau cải tươi… lúc nào cũng để dành cho ba nhiều nhứt.

Trên mâm cơm, má tôi thường bảo:

-  Cha con cứ ăn no đi, đừng để dành… Tôi đã ăn ngoài chợ bây giờ hãy còn no nên không muốn ăn…

     Đó là cái cớ má tôi nhường chồng, nhường con no đủ qua bữa! Để nửa đêm bao nữ bào bọt hoành hành, bà lén bưng nồi ra sau nhà cạo cơm cháy mà nuốt cho đỡ đói!

Khi ba vắng nhà, má thường thỏ thẻ nói với anh em chúng tôi, bằng những lời phát xuất từ trong đáy lòng bà:

-  Ba các con là một anh hùng trong lòng má, một người đội trời đạp đất, như bao nhiêu người trai khác có lý tưởng ở miền Nam. Họ hy sinh tuổi thanh xuân, đem thân mình ra đánh đuổi giặc… giúp nước nhà, cho gia đình có cơm ăn áo mặc, cuộc sống thành thơi, trẻ con cắp sách đến trường… Tội nghiệp ba các con, ý nguyện chưa đạt thành thì sa cơ thất thế bị giặc bắt cầm tù đày ải dở sống dở chết. Khi trở về ổng mất tất cả, chỉ còn mẹ con chúng ta là niềm vui, niềm hy vọng duy nhứt của ổng thôi. Các con phải thương yêu ba, kính hiếu với ba, nghe và đừng bao giờ trái lời ba, đừng làm điều gì để ba buồn lòng nghe chưa…

     Anh em chúng tôi vâng dạ, lòng đầy niềm kính yêu cha lẫn mẹ. Là đứa con trai độc nhứt và là đứa con cả của gia đình, tôi nguyện với lòng sau nầy lớn lên sẽ làm việc gì đó để trả hiếu cho cha mẹ, và giúp đỡ hai em…

2562 3 ToiCungCo1NguoiChaDTDB  

     Ba tôi được ra khỏi tù cải tạo thắm thoát đã sáu tháng. Thật là làm khó nếu không để ông ra ngoài bươn chải phụ má tôi kiếm sống cho gia đình. Ba tôi khổ tâm trước thời cuộc tranh giành, dối gian, lường gạt của chế độ… Đã  bế tắt con đường sống ở tương lai cho những người đồng cảnh ngộ như ông!

     Thế rồi ba tôi ra ngoài làm đủ thứ việc, làm đủ thứ nghề. Ông bán vé số, bán thuốc lá, bán đậu phộng rang trước các rạp hát, kéo xe đẩy trái cây cho các vựa, đạp xích lô… Nỗi đớn đau nhen nhúm trong lòng ông ngày càng thêm lớn khi ông nghĩ về quá khứ, và sự sống quá thiếu thốn khắt nghiệt ở hiện tại đôi lúc làm ông muốn nghẹt thở! Ông đành phải ngậm đắng nuốt cay nhẫn nhịn cầu nguyện hy vọng có một ngày…

     Sự chờ mong và hy vọng làm cho người ta phấn chấn. Và theo tháng ngày dài thời gian qua lại qua, ba tôi đã trở thành một phu xích lô chuyên nghiệp.  Ông lanh lợi chẳng thua kém ai trong việc bắt mối đưa rước khách, chở hàng… Sau mỗi ngày trả tiền mướn xe ông còn đem về được chút ít phụ má cải thiện việc ăn uống của gia đình khá hơn, không phải ăn độn khoai bắp mà đôi khi còn có thêm thịt cá… Chúng tôi dù thiếu thốn, nhưng vẫn còn hơn rất nhiều những gia đình khác có cùng cảnh ngộ.

     Má tôi biết xoay sở, an phận, chịu khó, chịu đựng, ba tôi siêng năng, còn sức khỏe và có công việc để làm. Ba tôi không phải ăn không ngồi rồi nhàn rỗi để nghĩ suy viễn vông trong thất chí, rồi sanh ra nhiều thứ bịnh mà bạn bè của ba có người đã mắc phải như trầm cảm, lãng trí, hoặc ảo tưởng…

     Cứ mỗi khi phố xá lên đèn, biết ba về trể nhưng má vẫn chờ, để hong cơm và thức ăn nóng lại cho ba. Như mọi hôm đi bán về, má tôi ngồi chờ ba, vì từ chiều mưa rỉ rả rồi mưa nặng hột nổi bong bóng dai dẳng cả mấy giờ mà vẫn chưa tạnh. Má ngại ba bịnh, vì trong lúc nhà vẫn thiếu trước hụt sau mà mang bịnh, dù nặng hay nhẹ ở thời buổi nầy cũng khổ lắm!

     Mưa tạnh lâu rồi ba vẫn chưa về má lo ngại ra đầu đường ngóng chờ ba. Ba trở về quá nửa đêm trong cơn say rượu…Tiền bạc đạp xích lô cả ngày không còn một “ten” dính túi. Má lo lắng lấy nước rửa mặt thay bộ đồ ướt cho ba… Ba lè nhè trong cổ họng trách hờn trời đất, thiên hạ rồi xoay qua chưởi bới đánh đập má tôi… Lúc đầu má tránh né, giựt cây, rồi chạy trốn chớ không dám cãi cọ, vì sợ chòm xóm hai bên nhà cười chê.

     Được mợi, từ đó đôi ngày ba lại mượn rượu về hành hạ má tôi dần dà riết thành thói quen! Đêm nào về đến nhà ông cũng đập đồ đạc, chưởi bới má, chúng tôi đang ngủ, bị lôi đầu dậy đánh đập… Cho nên sau đó, hễ thấy dáng ba về là anh em chúng tôi đứa tìm chỗ trốn… Vì ba thấy đứa nào thì gặp chổi lông gà, cành tre, nhánh cây… gì cũng dùng nó đánh túi bụi vào anh em tôi không cần có lý do! Và má tối mỗi tối vẫn chông đè chờ ba về…

     Nhẫn nhịn đến mức độ nào thôi… Một hôm trong lúc ba rượt đánh chúng tôi… Má vội bưng lấy thau nước dùng hết sức mình tạt vào mặt ba, mặt má tái xanh, run lập cập nói như hét:

-  Tôi chịu hết nổi rồi, chuyện gì mà mỗi ngày anh đều mượn rượu về hành hạ vợ con? Mẹ con tôi có nói hay làm gì phật ý anh không? Sao lúc nào anh cũng kiếm chuyện và gây khổ cho gia đình như vậy? Trời ơi, xin tôi được chết cho rồi, chớ gia đình như địa ngục như thế nầy hoài thì làm sao sống nổi đây hỡi trời…

     Có lẽ tìm không ra lý do để chưởi nữa, ông rượt đánh khiến đứa em út tôi sợ quá lăn đùng ra xỉu… Trời ơi, như vậy mà má tôi cũng cắn răng chịu đựng, và lúc nào ba vắng nhà, thì bà to nhỏ dặn dò khuyên bảo:

-  Các con đừng giận ba, ba thương các con lắm… Nhưng vì giờ đây ba thất chí đau buồn nên ổng quạo quọ, la hét như vậy rồi thôi… Không có gì đâu, dần dần rồi ổng sẽ hết các con phải thương mà đừng giận ba nghe.

     Má nói gì thì nói, nghe lời dạy chúng tôi làm thinh không trả lời. Nhưng anh em tôi sợ và ghét ba vô cùng, bọn tôi to nhỏ thì thầm với nhau “…Nếu ba mình đừng bao giờ trở về nhà thì có lẽ tốt hơn…”

     Trước sự cai trị tham ô, khắc nghiệt, và vô nhân của giặc. Nhưng dân cũng len lỏi mua vùa, bán giựt, chạy áp-phe để kiếm sống. Các cửa tiệm ngoài chợ cả tháng nay bổ nhiều mặt hàng về bán trong dịp Tết Nguyên Đán.

     Dù ba tôi luôn vô cớ hành hạ vợ con, nhưng má tôi vẫn một mực hết lòng hết dạ lo miếng ăn giấc ngủ cho chồng con. Bà nuôi được mấy con gà mà cậu út cho các cháu, từ khi chúng mới nở chừng mươi ngày, nay cũng đã lớn đại. Má đính để dành nấu cúng ông bà và gia đình ngon miệng trong những ngày Tết Nguyên Đán sắp tới, mà con gà trống biết gáy ó o và kè kè vòng vòng de mấy con gà mái. Còn con heo má tôi định qua Tết chờ lớn thêm một chút, bán được tiền đễ châm vốn, mở rộng việc mua nhiều mặt hàng bán trong năm tới, và nguyện cầu Phật Trời phù hộ khám khá hơn những năm qua…

     Nhưng sáng hôm đó má ra chợ bán như mọi khi, ba tôi dắt người lái heo đến cân heo rồi chở đi! Nhà không có con heo, mấy anh em tôi như thiếu đi một bạn nhỏ, ục ịt chạy rược mấy con gà trong sân, hoặc nghe tiếng má tôi là nó la eng ét đòi ăn…

     Chiều tan chợ về, má chưng hửng, đi nhanh ra sân sau tìm kiếm không thấy con heo… Thì ra bà không biết gì về vụ ba bán con heo? Má tôi chỉ còn nước chép miệng thở dài rồi lấy khăn lau nước mắt, và ôm ba anh em tôi cùng nhau thút thít khóc…

     Ngày bán heo, ba tôi đi luôn đến cả tuần lễ sau mới trở về. Lúc đó là chiều ba mươi Tết, ba xách về khoảng hai ký thịt heo, trà, bánh, trái, và rượu được gói giấy kiếng trong màu đỏ đẹp lắm… Má tôi không hỏi hang và nói gì về con heo như là: Cân nặng bao nhiêu ký, bán được bao nhiêu tiền, tiền đâu, và hổm rày anh ở đâu, không về? Má làm thịnh, lật đật lo xào, kho, chiên, nấu… với những thứ rau cải, đậu, cá… đã mua về nấu cúng ông bà ba ngày Tết và để cho gia đình ăn.

     Tiếng pháo chuột lẹt chẹt của những đứa cha mẹ có tiền ở đầu trên xóm dưới đang đốt chơi ngoài đường! Trời đêm ba mươi thật tối đen, tối như nhuộm mực, nếu ai đứng cách chừng một thước chắc chắn sẽ không thấy, thì đừng nói là nhận được người đối diện đứng xa hơn. Ngoài đường xe cộ cũng ít đi, vì ai nấy hôm nay buôn bán xa gần gì cũng thu xếp về sớm để cúng rước ông bà.

     Có lẽ mai là ngày Tết, hôm nay ba về không say rượu, không chưởi má, không đánh chúng tôi là tốt quá rồi chắc năm mới sẽ vui vẻ và may mắn… Mấy chị em tôi biết thân phận ăn xong phụ má dọn dẹp thì rúc vô chỗ ngủ của mình…

     Bàng hoàng sực tỉnh ngủ, các em ôm chầm lấy tôi vì sợ hãi, vì cùng nghe tiếng khóc lớn của má! Chúng tôi như nín thở, sợ lại bị ba lôi anh em tôi ra đánh chạy nọc như những lần trước…

Má nói gì với ba chúng tôi không nghe rõ, nhưng tiếng ba hét: 

-  Tiền bán con heo hả? Tôi đã đánh bài thua hết rồi… Tôi muốn có thêm tiền, nhưng xui xẻo chớ bộ tôi muốn thua sao? Vợ con thật chán, không bao nhiêu tiền mà cằn nhằn khóc lóc… Tôi thật mù mắt và hối hận ngày xưa sao ưng lấy bà? Tôi chưa chết, thôi bà cứ khóc cho đã, tôi đi đây và từ rày sẽ không về cái nhà như địa ngục trần gian nầy nữa…

     Tiếng kót két mở cửa của bảng lề khô dầu, cùng tiếng ầm đánh xầm đóng lại! Ba đi rồi, mẹ con tôi ôm nhau khóc! Bên ngoài đã đến giờ Giao thừa, dù không có tiếng pháo đì đùng chào đón Tết. Nhưng theo gió xuân, mùi hương đăng trà quả khói nhang, bánh, trái, bay tỏa trong đêm trừ tịch…

2562 4 ToiCungCo1NguoiChaDTDB

     Ngày mùng ba Tết ba tôi về chừng nửa buổi rồi lại đi! Mỗi lần về ông lầm lì ít nói, má tôi hỏi đến đâu thì ông nói đến đó, ông bảo sống ở nhà một đồng ngũ ngày xưa, cùng chạy xích lô như ông. Ba tôi bảo muốn thay đổi không khí, sống xa gia đình thời gian rồi ông sẽ trở về… Má tôi cam chịu, không than oán, hay trách hờn ba! Đến nước nầy mà má tôi còn khuyên bảo các con: “…Vì cha bị tù đày khổ cực nên đôi khi tánh tình thay đổi, chớ ba thương gia đình lắm…”

     Ba tôi vẫn đi đi, về về như người quen đến thăm. Ông để gánh nặng con cái ngày càng lớn cho má lo và không hề hỏi gì đến chúng tôi! Rồi có một hôm ba về nói cho má biết, là muốn đem gia đình vượt biên rời chốn hắc ám quỉ quái đau khổ nầy!

     Thế là má tôi bán nhà đang ở được hai chục (20) cây vàng, thuở đó vào năm 1980. Ba tôi đem vàng chồng cho chủ tàu thay tiền lộ phí hết mười tám (18) cây cho hai người lớn và ba đứa nhỏ! Bao nhiêu âu lo lẫn vui mừng và hy vọng chan chứa trong tâm hồn má tôi vì tương lai của chồng con, bà cũng muốn rời khỏi chốn nầy!

Nhưng linh tính cho riêng tôi biết rằng, sắp có chuyện long trời, lở đất không may xảy ra cho gia đình chúng tôi!

     Nhưng má tôi lại nghĩ, bước chân xuống ghe vượt biên, nếu có chết thì cả gia đình cùng chết. Nếu vượt thoát thì ba tôi thoát được cảnh khổ ở nội tâm ông bị dằn dật suốt thời gian đi tù cải tạo về đến giờ. Ba má qua bên đó sẽ đi làm lo cho tương lai của ba anh em tôi. Mười tám cây vàng đổi lấy hạnh phúc gia đình và tương lai tươi sáng cho chồng và ba đứa con, quả thật là xứng đáng lắm! Với thân mình gầy đét, tiều tụy vì vất vả nhọc nhằn, thiếu ăn thiếu mặc của má tôi. Nhưng nét mặt của bà mấy hôm nay rạng rỡ, ánh mắt long lanh vì trong long bà đầy niềm vui và niềm hy vọng.

     Tâm hồn má tôi lúc đó phấn khởi vô cùng. Lòng bà như được ướp mật ngọt, như trời nắng hạ được cơn gió thổi qua, như người chết chìm với nắm được cái phao, như uống gáo nước mưa thấm dạ mát lòng trong cơn khát. Trong lòng má tôi lúc bấy giờ cả một bầu trời thênh thang, rộng mở như lót đầy hoa thơm cỏ lạ, đầy chân thiện mỹ, đẹp đẽ thật đáng được yêu, và đáng quý vô cùng…

     Ba tôi hẹn chiều ngày đó sẽ về đón mẹ con. Chúng tôi mỗi người hai bộ đồ cho vào túi nải hồi hộp đợi chờ! Bốn mẹ con sống trong âu lo và chờ đợi, sợ đến nỗi con chuột chạy qua, con mèo cắn lộn bên ngoài cũng điếng hồn điếng vía… Vì nếu ai đó vô tình biết được đi mật báo với kẻ thù (Việt cộng) hoặc bọn chúng phác giác gia đình sắp vượt biên thì sẽ tàn đời, thì mất tất cả và còn lâm vào vòng lao lý…

     Nhưng một ngày, rồi lại hai ngày, ba ngày, cả tuần lễ trôi qua chúng tôi vẫn không thấy bóng dáng ba đâu? Ba vẫn chưa trở lại đón mẹ con tôi, và cũng đã đến ngày phải giao nhà lại cho chủ mới!

     Me con tôi ôm gói ra khỏi nhà đi lan than, đói khát, nắng mưa… Trời ơi, có đọan trường nào hơn? Cả tháng mẹ con tôi sống ngoài mưa gió, lúc gầm cầu lúc ngủ trong những sạp bán hàng ngoài chợ… Và cơ duyên đưa đầy, chúng tôi trôi dạt ghé tịnh xá gần Sa Cảng Miền Tây xin ăn trong dịp những ngày lễ cúng… Nhờ vào từ tâm của ni sư, mẹ con tôi được bữa cơm ngon chưa từng có, cơm gạo đỏ độn khoai mì với những món đơn sơ rau lang luộc chấm tương chao, và đồ la-ghim xào, kho, nấu… của bạn hàng bán ế chợ đem tặng cho chùa…

     Trong lúc phụ dọn dẹp rửa chén bát, ni sư hỏi ra má tôi là người cùng thôn với thân sinh của bà. Thương hoàn cảnh mẹ con tôi, ni sư cho ở nhờ trong một cái am bỏ trống lâu ngày phía sau tịnh xá.

    Má tôi lại trở về nghề cũ sáng sớm đi mua đầu chợ, bán cuối chợ… Anh em tôi hàng ngày phụ giúp ni sư làm những chuyện lặt vặt mà sức chúng tôi có thể làm được, như xách nước giếng, ôm củi, quét lá, nhổ cỏ, tưới cây… Chúng tôi được ni sư cho ăn no đủ và dạy học chữ cùng vài đứa nhỏ trong xóm.

Ngày đó má tôi đi bán về, ni sư gọi má tôi bảo:

-  Mẹ con chị ở đây được bao lâu rồi, chị có định liệu gì không? Chẳng lẽ suốt đời ở trong am đó hoài sao, rồi tương lai của con cái chị nữa, chị có dự tính gì chưa?

Má tôi vội quỳ xuống nghẹn ngào:

-  Dạ mẹ con tá túc tịnh xá cũng gần một năm rồi. Xin sư đại sá từ bi cho chúng con ở thêm thời gian ngắn nữa, khi con có vốn trả tiền mướn nhà chúng con sẽ ra đi. Kính mong sư thương tình, nếu bây giờ sư không cho ở nữa thật sự con không biết phải đi đâu! Thưa sư, chúng con không đủ ăn, áo không lành thì còn nghĩ gì ở tương lai. Kính mong ni sư thương tình, cho chúng con ở trong thời gian ngắn nữa, rồi con sẽ dọn đi…

     Ni sư tuổi cũng gần bảy mươi, ít nói, nét mặt hiền hòa trầm lặng. Dáng sư cao, gầy, hắt hiu thùng thình trong chiếc áo màu và, qua ánh đèn leo lét tỏa ra trên bàn phật.

Sư thở dài, từ tốn:

-  Sư không có ý đó! Má con ở đây chừng nào đi cũng được. Nhưng có một người muốn gặp con, địa chỉ đây, con hãy đến gặp họ đi…

     Từ ngày ba mất tích với số vàng là sanh mạng của mẹ con chúng tôi. Mãi đến nay má tôi chỉ nghi ngờ ông cờ bạc thua hết rồi không dám về. Và bà cũng buồn đau vì chồng không biết nghĩ, nhưng ngày ngày vất vả bận rộn trong việc sinh nhai của ba mẹ con, nỗi đau buồn dần dân rồi cũng ít nhiều nhạt phai!

     Nhưng sau khi gặp một người mà ni sư bảo đi gặp! Má tôi trở về với nét mặt âu sầu, đớn đau đến tột cùng! Và bà bịnh liệt giường, không ăn uống cả tuần lễ… Ni sư khuyên bảo cách chi cũng vô hiệu, còn anh em chúng tôi lúc nào cũng ở sát bên mẹ, mặt đầm đìa nước mắt… Chúng tôi cầu xin Ơn Trên cho mẹ sống, xin mẹ đừng bỏ chúng tôi lại trên cõi đời nầy!

     Hôm đó ni sư bưng đến tô cháo, và nói chuyện với má tôi lâu lắm… Sư về, má tôi ăn hết cháo sư cho để lấy lại sức, và mấy hôm sau bà quay gánh đi bán chợ trở lại!

     Từ đó má tôi có nhiều thay đổi, bá ít nói ít cười, nghiêm nghị, và trên mặt lúc nào cũng hằng khắc khổ thương đau! Giờ đây bà làm việc gì cũng lanh và lẹ, nét mặt luôn trầm tư, đôi mắt buồn xa vắng!

     Tối nay, sau khi ăn xong, thì trăng rằm đã lên, ánh trăng len lỏi qua khung cửa nhỏ tỏa sáng cả cái am nhỏ của tịnh xá. Nơi đây có mái lá che nắng che mưa, cũng là nơi chúng tôi vừa để ngồi ăn và để nằm ngủ. Má gọi ba anh em ngồi đối diện với bà. Chúng tôi rón rén nhìn nhau và lo sợ, bởi mặt má hết sức lạnh lùng… mà tôi có cảm tưởng bà như một người bằng sắt, bằng thép, hay bằng gỗ!

Má nói với chúng tôi, rõ ràng từng lời một:

-  Má cho mấy đứa biết, ba các con đã chết rồi! Từ rày trên thế gian nầy chỉ còn có mẹ con mình đùm bọc, giúp đỡ với nhau thôi! Vì má không còn chồng, và các con không còn ba nữa…

Các em tôi thao láo nhìn má rồi khóc thúc thích. Còn tôi chưng hửng, e dè nhỏ giọng hỏi má:

-  Tại sao ba chết, ba chết chôn ở đâu, làm sao má biết…?

Má tôi lạnh lung, vắn tắt:

-  Con hỏi nhiều quá! Má chỉ biết là ba con đã chết, là chết chớ không biết chết ở đâu chôn nơi nào, và nguyên nhân chết ra sao? Vậy kể từ hôm nay, trên cõi đời nầy mẹ con ta không còn ba nữa!

2562 5 ToiCungCo1NguoiChaDTDB

       Tuổi thơ ở Việt Nam Cộng sản là cơn ác mộng với ba anh em tôi! Thời gian đó đã qua mấy mươi năm rồi, nhưng riêng tôi như mới hôm nào đây thôi. Sau khi nhờ cậu mợ Út giúp đỡ để mẹ con tôi cùng bôn đào theo ghe của người anh vợ, và qua đến xứ tự do…

     Trải qua bao nhiêu dâu bể nơi xứ lạ quê người, má tôi cũng một thân một mình lo lường, vất vả trăm bề. Để gần ba mươi năm sau, giờ đây anh em chúng tôi đã thành nhân, có gia thất đề huề. Khung trời nước Úc là nơi nương tựa vững chắc, đầy tình người ấm áp cho những người tị nạn Cộng sản như chúng tôi.

     Tôi là con trai lớn của má, bà sống chung với vợ chồng vợ chồng tôi  và ngó chừng cháu nội. Má năm nay đã trọng tuổi, nên chúng tôi có người giúp việc nhà, lo cơm nước cho bà và săn sóc các cháu. Tôi và đứa em kế cùng ngành y, cô em út làm cho chánh phủ và có văn phòng luật sư riêng.

     Hôm nay đi làm về, tôi rất vui mừng thấy má ra ngồi trên xích đu ở mái hiên nhà trước. Thời tiết vùng nầy đã vào chánh mùa xuân, muôn hoa khoe sắc thắm, cây ăn trái như cam, chanh, hồng, quít… trước sau nhà đơm bông kết trái non. Gió xuân phơi phới mát rượi, má tôi tươi vui, da dẻ hồng hào, ánh mắt sáng ngời nhìn trời xa. Chứng tỏ tâm lòng bà không chút âu lo, phiền não, rất mãn nguyên và hạnh phúc ở tuổi già, mà sự thành công của anh em chúng tôi là niềm tự hào, là niềm hãnh diện của chính bà.

Chuông điện thoại reo vang, giọng eo éo của cô em gái út:

-  Anh Hai hả, má có khỏe không? Anh có thấy nghe gì tin tức trong Internet, truyền hình, các báo chí Việt ngữ ở Mỹ, ở địa phương không?

      Tôi mắc tức cười:

-  Má vẫn thường! Tin tức thiếu gì có rất nhiều thứ: Cháy nhà, ngập nước, xe đụng, chìm ghe, đánh ghen, Trung quốc xâm lấn lãnh thổ lãnh hải Việt Nam, Gia đình Việt Cộng lớn chèn ép cướp đất, cướp nhà người ta, dân nghèo sống về đêm bằng nghề bươi rác ở khắp nước Việt Nam. Những lao nô Việt Nam bị bóc lột ở các nước anh em Cộng sản của họ, và còn nhiều thứ lắm… không sao kể hết. Vậy em muốn nói đến tin gì đây? Chớ hỏi chung chung thì làm sao anh biết mà trả lời cho cô út?

          Cô em Út cười hí hí, rồi trỗi giọng tê-no liến láu:

-  Trong mục tìm người… Có nhắn tin của ông nào đó, em chỉ nhớ mang máng thôi, sao mà hình ông ta giống ba mình quá anh Hai, tên cũng giống nữa, đang ở bên Mỹ… Anh thử tìm xem, rồi cho em biết nghe…

          -  Con nhỏ nầy, bậy không hà, làm gì có chuyện đó? Tên trùng tên, người giống người! Nhớ lúc còn ở quê nhà má nói ba đã chết, tính đến nay cũng đã mấy mươi năm, bộ em quên rồi sao?

     Sáng hôm sau, ở bãi đậu xe đứa em gái út chờ sẵn tôi, mà trên tay với xấp báo dầy cộm. có đầy đủ lời nhắn tin tìm người thân và hình ảnh…

Tôi xem qua, xem lại mấy lần, tay chân như rụng rời, tâm trí như hụt hẫng và thật sự đã mất đi bình tĩnh! Trời ơi, người trong ảnh đích thị là cha tôi đây mà! Ông đã chết từ mấy chục năm nay giờ đột nhiên sống lại, và đang ở một nước cách chúng tôi hơn nửa quả địa cầu!

     Lấy lại bình tĩnh, tôi buồn bã căn dặn con em út:

-  Em đừng cho má biết, nhớ gọi con Ba (em thứ ba) cho biết mọi sự. Nhớ bảo nó theo dõi đài và tin tức trên Internet, và chiều mai thứ sáu sau khi tan sở, đến nhà anh dùng bữa ăn chiều. Nhớ chỉ có ba anh em mình và má thôi nghe. Còn chồng bây, chồng con Ba cùng mấy cháu ngoại của má, phải  tìm cách đừng để họ đến nhà anh chiều mai. Anh sẽ cho chị dâu và mấy cháu về bên ngơại chúng. Phải giữ kín với chồng bây, sau nầy sẽ cho biết cũng không muộn nghe…

     Chiều ngày thứ sáu hôm đó, sau khi bà bếp dọn cơm lên bàn xong thì cậu chủ phát lương và ra về sớm. Bà giúp việc ăn ở luôn nhà chủ từ thứ hai đến thứ sáu mỗi tháng được trả một ngàn Úc kim ($1.000). Số tiền nầy ở dưới chế độ Việt Nam cộng sản hiện tại, dù là một công chức chân chính, có thâm niên làm mười năm công vụ đi nữa, mỗi tháng cũng chưa lãnh được số tiền tương tợ như vậy! Bà người làm mọi việc lặt vặt trong nhà, nhưng không gì nặng nhọc cho lắm: Nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ áo quần… và nhứt là hủ hỉ với má ông chủ năm nay đã ngoài bảy mươi.

      Bà cụ chân yếu không đi xa được, nhưng bà còn tự làm các công việc cho mình, như ăn uống, vệ sinh cá nhân, tắm rửa. Chỉ giúp bà dọn cơm lên, bà ăn xong dẹp rửa. Đem áo quần sạch vào nhà tắm, tắm xong dọn dẹp lau chùi và đem quần áo dơ để vào đồ giặt thôi. Khi nào rỗi rãnh thì kể chuyện nay, hoặc chuyện xưa cho bà nghe, vì họ chung một quê hương, cùng phong tục tập quán và cùng ngôn ngữ và nhứt là người miền Nam với bà, nên rất hợp và dễ nói chuyện.

       Thấy mấy đứa con về ăn cơm chiều họp mặt gia đình mà không thấy cháu nội cháu ngoại và dâu, rể. Con dâu hôm nay đi làm về sớm, chở mấy đứa con ra ngoài bảo sẽ về nhà ngoại chơi và ăn cơm bên đó luôn. Hai đứa con gái đến một mình không chồng con cùng đến, bà hơi thắc mắc nhưng kệ bọn nó, chắc là chúng có điều chi muốn nói riêng với mình.

     Ba đứa con bà đều hiếu thảo, con dâu người Việt, và hai thằng rể một đức người Phi, một đứa dân bảng xứ. Chúng nó là những đứa biết điều, nên bà rất vui lòng và hạnh phúc trong cái hạnh phúc của các con cháu đã luôn mang đến niềm vui cho bà. Khi các con ra trường đi làm thì chúng lo cho bà đủ mọi thứ. Nhờ ơn Trời, chúng nó đều khá giả, bà sống với thằng con thứ hai, nên hai cô em gái trả tiền người làm hàng tháng, coi như phụ anh chị để cùng lo cho mẹ. Các con, dâu, rể luôn mua món ngon, vật lạ cho bà từ miếng ăn, giấc ngủ, cái quần, cái áo…

     Bà không tốn đồng nào kể từ khi thằng lớn đi làm. Tiền hưu trí bà giữ hết để gởi về cho anh và bà con đang khốn khó bên nhà, xây mồ mả lại cho cha mẹ. Bà gởi tiền về xây lại tịnh sá, sửa chữa những thứ cần thiết để trả ơn ni sư giúp mẹ con bà lúc sa cơ thất thế khốn khổ, không cửa không nhà… Sau đó bà tự nguyện với lòng, tháng nào bà cũng gởi về cho ni sư một trăm (100) đồng để nhang khói cho đến khi ni sư trăm tuổi già thì thôi.

     Đứa con út cắt trái hồng khô mời:

-  Má ăn thử miếng hồng khô đầu mùa, mềm, dẻo và ngọt lắm má…

          Bà quay về thực tế và thằng con cũng bưng dĩa bánh in nhưn sầu riêng đến, đứa con gái lớn rót trà vào tách cho bà và cho anh em chúng nó…

Linh tính cho biết, bà mẹ mỉm cười nhìn các con, ôn tồn bảo:

-  Hôm nay có chuyện gì bọn bây muốn nói với má, mà không cho dâu rể và các cháu má tham dự vậy? Thôi đừng có làm thinh nữa, cứ nói ra đi… Mẹ sanh bây ra bằng cườm tay, nuôi cho chúng bây nên vóc nên hình thì tâm tình chúng bây làm sao mẹ không biết, không hiểu?  Vậy anh em bây hãy nói đi đừng để má phải đoán mò nữa…

      Hai đứa em gái, nhìn anh mình nheo mắt ra hiệu thúc hối có ý bảo nói đi. Người con trai cúi mặt e dè hỏi mẹ:

-  Má à, giờ đây chúng con đứa nào cũng là người lớn, biết suy xét cả rồi… Xin má nói thiệt cho chúng con biết, ba chúng con còn sống hay thật sự đã chết như mấy mươi năm trước má nói với chúng con…

          Bà cụ giựt mình, tay chụp ngay thành ghế để giữ vững dù bà đang ngồi! Đã mấy mươi năm trôi qua bà thật sự đã quên hết rồi, nay bỗng dưng con nhắc lại, bao nhiêu dĩ vãng đau thương vụt quay về! Bà như muốn nghẹt thở trong khi các con ánh mắt cầu khẩn nhìn? Chúng mong muốn mẹ trả lời, nói ra sự thật về cha...

     Bà mẹ tay run run cầm tách nước trà hớp một ngụm, đặt tách xuống còn nghe khua lạch cạch chạm vào dĩa. Qua khung cửa sổ, đôi mắt già nhăn nheo, dáng điệu u buồn đăm chiêu hiu hắt nhìn trời cao.

Bà nhẹ thở dài:

          -  Tại sao các con hôm nay lại muốn biết? Việc đã qua mấy mươi năm rồi, má thật sự không muốn nhớ và cũng không muốn nhắc lại…

          Đứa em kế (thứ ba) chớp chớp mắt, nhẹ giọng:

          -  Má à, vì cả tuần nay, tin tức trên báo chí, trên Internet, trên truyền hình Việt ngữ ở địa phương... đều ghi trong mục nhắn tin tìm người than. Trong mục nhắc tin đó có ghi rõ tên họ má, và anh em con…

Đứa em gái út nhanh nhẩu lên tiếng:

-  Thật đó má, con không nhớ mặt ba, nhưng anh Hai và chị Ba chắc chắn người đó là ba của chúng con. Ông bịnh nặng lắm đang nằm nhà thương ở Mỹ, mong được một lần gặp lại mẹ con chúng ta trước khi ông lìa bỏ cõi đời nầy…

          Con Út vừa nói vừa lấy hình ảnh, và lời nhắn trên báo, đã in ra từ Internet đưa cho mẹ xem. Mẹ chúng tôi trầm ngâm, rồi từ từ dở từng trang giấy báo ra, và anh em tôi nhìn nhau ái ngại!

     Má dừng lại nơi lời nhắn tin: “…Ông Trần Văn Hữu Nam… đang bịnh nặng ở... Trước khi qua đời ông ước mong được gặp lại vợ là bà Bùi Ngọc Mai Anh, cùng ba con là: Trần Bùi Nam Hải, Trần Bùi Anh Hà, Trần Bùi Nam Anh…” Khi xem xong, bà tiện tay đẩy những báo chí có quảng cáo đó qua góc bàn. Như đã lấy lại bình tĩnh, trên mặt bà hết sức dửng dưng vô thưởng vô phạt và an nhiên. Đôi mắt già nua của bà đăm chiêu như cố nhớ lại những chuyện đã qua! An hem chúng tôi liếc nhìn nhau e dè yên lặng! Cái yên lặng nặng nề bao trùm cả căn phòng ăn rộng rãi.

Bỗng má tôi lên tiếng kể như truyện đời xưa, mà trên nét mặt không một chút hỉ, nộ, ái, ố.

Giọng má tôi hơi run:

          -  Người trong ảnh đúng là ba các con rồi! Thiệt thời gian qua mau như cơn gió lốc, mới đó mà mấy mươi năm! Các con còn nhớ năm xưa sáng nào má cũng đi bán chợ, có một hôm ở nhà ba kêu lái mua lại bán con heo rồi lấy tiền đi luôn gần mươi bữa, cho mãi đến chiều Ba Mươi Tết mới về. Ổng bán con heo lấy tiền mua quà lễ mang qua nhà gái để cưới vợ mới cho ông! Khi nhà gái lợi quả, ổng đem quà đó về cho mẹ con mình ăn Tết! Rồi mấy tháng sau đó, ổng bảo má bán căn nhà ngoại cho đang ở để làm lộ phí cho mẹ con mình cùng vượt biên. Nhưng ổng đóng tiền lộ phí để đi thiệt, nhưng là đi với vợ mới cưới và hai đứa con riêng của bả vượt biên!

          Anh em tôi lắng nghe muốn nín thở! Trời ơi, vậy mà bấy lâu nay má tôi ôm kín nỗi đau đớn khổ tâm đó một mình! Vòng tay thật chặt xiết ôm má, tôi muốn san sẻ những đau buồn tận cùng đã ấp ủ giấu kín đè nặng trong lòng má tôi từ bấy lâu nay!

Má nhếch mép cố tạo nụ cười để cho anh em tôi biết, và nghĩ rằng má không khổ chút nào! Hớp thêm ngụm nước nữa, đều giọng thở dài má bảo:

-  Các con còn nhớ ni sư cho địa chỉ để má đi gặp một người không? Đó là chị dâu bà vợ mới của ba con, ni sư là cô chồng của bả, và là cô ruột người vợ mới của ổng. Thời gian sau mẹ con mình đến xin tá túc trong am ở tịnh sá (lúc đó ni sư không biết) ni sư hỏi thăm má qua người cháu dâu của ni sư. Sau đó ni sư mới biết tự sự là người cưới cháu gái bả là ba của các con! Khi cháu dâu của ni sư kể cho má biết ba các con cùng em chồng bả đã vượt biên đến bờ bến tự do rồi! Lúc đó thật má muốn chết cho xong! Sắp bước vào quỉ môn quang thì các con ôm chầm lấy má kêu khóc… Má như sực tỉnh lại, và vì các con má cố đứng lên làm lại tất cả… Má nghĩ ngồi đó nguyền rủa, khóc lóc đau buồn cũng chẳng có lợi lộc gì, và cũng chẳng có ai giúp mình đâu! Các con là sự sinh tồn của má.

Má tôi u buồn, thở dài:

-  Thật sự má đứng lên được là nhờ tình thương của các con! Má suy nghĩ không biết sẽ nói với các con thế nào khi ổng có những hành động với mẹ con mình? Và nỗi đau đớn tột cùng của má, đã giết chết tình yêu vợ chồng bao nhiêu năm qua cùng cam cộng khổ với nhau! Thật như vậy, qua phút não lòng, má tỉnh lại như mình đã ngủ một giấc dài, và đổi thành một người khác… Kể từ đó trong lòng má không còn chút tình cảm nào với ổng nữa, và má cũng không muốn các con đau buồn, nên đành phải gạt các con là ổng đã chết! Má xin lỗi! Má xin lỗi các con…

Anh em tôi ôm má khóc sướt mướt, khóc như chưa bao giờ được khóc! Lòng kính yêu má tăng gấp bội phần hơn và ngập tràn tâm hồn chúng tôi. Má choàng tay ôm lấy chúng tôi, vỗ nhè nhẹ vào lưng anh em tôi với vẻ mặt điềm nhiên, ánh mắt thư thả, dịu dàng như đời bà chưa hề xảy ra những chuyện thê thảm gì trong tình chồng vợ nghĩa phu thê!

          -  “Tri nhân tri diện bất tri tâm” lòng người thật đáng sợ! Đã không còn tình cảm vợ chồng nữa thì còn có trách nhiệm và cũng phải nghĩ lại ba đứa con đang nheo nhóc đói khổ không cửa không nhà chớ!

          Anh em tôi lặng lẽ lắng nghe, má chép miệng thở dài:

-  Má nghĩ giữa hai người không họ hàng thân thích gặp nhau, có giây phút tốt đẹp chói chang làm sáng cả cuộc đời thì quá đủ rồi! Niềm vui chỉ là một lúc, còn tình cảm và đau khổ là con đường dài không chỗ ngừng lại… để oán hận lúc nào cũng theo cuộc sống của chúng ta! Nhưng mọi sự việc đó trong lòng má nhờ thời gian cũng phai nhạt, và nay đã chôn vào quên lãng rồi! Các con ơi, tha thứ được thì nên tha thứ, chúng ta sẽ thấy trời cao hơn, biển sẽ lớn hơn với tấm lòng rộng mở…

          Đôi mắt u buồn nhìn qua cửa sổ, trời cao vòi vọi. Má tôi với giọng đều đều như ru:

-  Trải qua cuộc bể dâu của đời người, má nghiệm thấy rằng: Dù ở hoàn cảnh nào cũng đừng bao giờ quên đi cái nguyên sơ của mình! Các con phải biết nhẫn, biết nhường nhịn và mở rộng lòng… đừng vì phút bốc đồng, hay cái lợi trước mắt mà quên đi hậu quả sẽ đến! Cây kim gói giấu kín trong bao lâu ngày cũng sẽ lòi ra, đồng tiền cũng biết phát sáng đó mà! Rồi đến một ngày kia quay đầu ngoảnh lại, thì chúng ta chỉ còn niềm vui, nỗi buồn và nhiều thứ đáng quý khác… Bây giờ các con đã có đời sống riêng tư tốt đẹp phải biết trân quý. Các con trưởng thành được tôi luyện và đứng vững trong một nước tự do trên cõi đời nhiều hệ lụy nầy. Bây giờ, các con không cần phải hỏi và chờ ý kiến của má, là có nên đi gặp lại ba lần cúi cùng trước khi ổng qua đời không? “Đèn nhà ai nấy sáng” dư luận bên ngoài của thế nhân chỉ ở hiện tại, giai đoạn, chớ không ai biết gì dĩ vãng đã xảy ra cho gia đình mình thuở xa xưa như thế nào? Và dư luận đó cũng không tồn tại lâu ở tương lai! Các con đừng nghĩ ngợi nhiều về miệng người đời, mà hãy chú tâm về hành động của mình “quả báo nhãn tiền” có sự trả vay! Vậy quyết định có đi thăm ba không thì tùy ý các con…

Mấy tháng sau, tin trên báo chia buồn ba tôi qua đời! Ông được đồng đội xưa và bạn bè an táng mồ yên bình mả đẹp trong nghĩa trang “Rose Hill” ở miền Nam nước Mỹ! Giờ đây đã bốn năm rồi, bốn năm sau ngày ba tôi qua đời! Bà mẹ vĩ đại, bà tiên hiền lành... của anh em chúng tôi cũng đã ra người thiên cổ!

Con người được sanh ra trên thế gian ai cũng có những hồi ức! Và ai cũng có một người cha ruột của mình! Anh em chúng tôi cũng không ngoại lệ! Nhưng trong niềm thương nỗi nhớ và sự giải thích, ý nghĩa của hai chữ “phụ thân” thì tình trạng của anh em chúng tôi có khác! Chúng ta không giống nhau, cho tất cả những người có cha trên cõi đời nầy!

California, chớm thu về

Tệ xá Diễm Diễm Khánh An

Dư Thị Diễm Buồn

Trong tập văn “Niềm Thương nỗi Nhớ”

Add comment

Security code
Refresh

Tìm bài theo vần ABC